Dịch Vụ Hải Quan Trọn Gói - XNK Nhật Minh Khánh thông tin đến quý khách hàng về: "Danh sách doanh nghiệp nước ngoài được phép xuất khẩu thực phẩm thủy sản vào Việt Nam" - thông tin tham khảo về nguồn hàng thủy sản nhập khẩu từ nước ngoài về Việt Nam.
Danh sách các doanh nghiệp sản xuất chế biến gạo của Việt Nam được phép xuất khẩu sang Trung Quốc
Tổng cục Hải quan Trung Quốc (CAGG) vừa cho phép thêm 21 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu gạo vào thị trường này. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu gạo vào Trung Quốc được nhận định sẽ không có biến động lớn.
Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc và ASEAN chiếm 72% sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tính đến hết tháng 11/2023
Theo thông tin từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), mới đây, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (CAGG) đã nâng số lượng doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu gạo sang Trung Quốc lên 41 doanh nghiệp. Trong đó, có 22 doanh nghiệp có giấy phép xuất khẩu đến ngày 2/1/2026 là hết hạn và 4 doanh nghiệp đến ngày 30/12/2026, số còn lại đến năm 2028.
Sau khi hết hạn, các doanh nghiệp Việt Nam muốn tiếp tục xuất khẩu gạo sang thị trường này thì phải làm thủ tục xin cấp giấy phép mới.
Theo nhận định của đại diện một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo khu vực các tỉnh phía Nam, việc Trung Quốc tăng thêm số lượng doanh nghiệp xuất khẩu gạo vào thị trường này sẽ làm tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam để chia sẻ thị trường nhập khẩu khoảng 1 triệu tấn (cả gạo tẻ và gạo nếp) mỗi năm.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp cho biết Trung Quốc có chính sách dự trữ gạo quốc gia khá tốt. Do đó, thương nhân ngành gạo ở quốc gia này chủ yếu mua vào khi giá gạo thế giới xuống thấp.
Hiện nay, cả giá gạo nếp và gạo tẻ xuất khẩu của Việt Nam đều cao hơn so với giá các mặt hàng gạo cùng loại của Trung Quốc. Vì thế, mặc dù số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này được tăng thêm nhưng sẽ khó tỷ lệ thuận với việc kim ngạch xuất khẩu gạo vào Trung Quốc tăng lên tương ứng.
Theo tìm hiểu, hiện nay, mỗi năm Chính phủ Trung Quốc cấp quota nhập khẩu khoảng 5 triệu tấn gạo, nhưng không phân bổ hạn ngạch cụ thể cho từng thị trường mà các thương nhân sẽ là người quyết định và giá gạo của nước xuất khẩu sẽ là yếu tố để họ quyết định mua của nước nào và số lượng bao nhiêu.
“Khi Ấn Độ chưa cấm xuất khẩu gạo và giá gạo trắng của nước này rất rẻ thì thương nhân Trung Quốc mua gạo của Ấn Độ rất nhiều. Mặc khác, họ cũng quan sát các nước xuất khẩu gạo khác như Việt Nam, Thái Lan, Myanmar xem nước nào có giá bán tốt họ sẽ mua vào. Do vậy, việc thương nhân Trung Quốc mua gạo của Việt Nam nhiều hay ít là do giá gạo của Việt Nam có cạnh tranh hay không, không phụ thuộc vào số lượng doanh nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu gạo vào thị trường này”, đại diện một doanh nghiệp xuất khẩu gạo tại TP. Hồ Chí Minh nói.
Về kết quả xuất khẩu gạo, theo VFA, trong nửa đầu tháng 12/2023 các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu được gần 292.200 tấn gạo, kim ngạch đạt khoảng hơn 200 triệu USD. Tính lũy kế từ đầu năm đến 15/12, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 7,93 triệu tấn, kim ngạch khoảng trên 4,53 tỷ USD, tăng 15,38% so với cùng kỳ năm ngoái về sản lượng và tăng 35,89% về giá trị.
Theo cập nhật của Tổng cục Hải quan, hết tháng 11/2023, ASEAN và Trung Quốc là hai thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam; trong đó, xuất sang ASEAN đạt 4,58 triệu tấn, tăng 25,6% so với cùng kỳ năm ngoái; sang Trung Quốc đạt 896 nghìn tấn, tăng 10,9%. Tính chung, lượng gạo xuất sang 2 thị trường đạt 5,48 triệu tấn, chiếm tới 72% lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong cùng thời điểm.
Về lĩnh vực sản xuất lúa, đến nay, các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được hơn 600.000 hecta lúa Thu Đông 2023 với năng suất trung bình khoảng 5,7 tấn lúa/ha. Lúa Đông Xuân 2023-2024 đã xuống giống được 732.000 ha/1,47 triệu hecta diện tích kế hoạch.
Giá lúa, gạo tại thị trường trong nước trong nửa đầu tháng 12/2023 đang có xu hướng tăng, phổ biến là cao hơn 50-300 đồng/kg so với tháng trước. Lúa hạt dài tươi (tại ruộng) phổ biến ở mức 9.321 đồng/kg, lúa thường khoảng 9.093 đồng/kg. Lúa khô tại kho phổ biến ở mức 10.400-10.700 đồng/kg. Gạo lứt loại 1 khoảng 13.600 đồng/kg, gạo lứt loại 2 khoảng 12.980 đồng/kg. Gạo xát trắng dao động từ 15.200-15.900 đồng/kg.
Sao chép liên kết để chia sẻ bài viết lên Facebook, Zalo,...