Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khu vực Đông Nam Á có mấy nước?
Khu vực Đông Nam Á gồm 11 quốc gia, đó là:
Trong đó có 10 quốc gia là thành viên chính thức của Tổ chức ASEAN và quốc gia còn lại là quan sát viên của tổ chức này (Đông Timor).
Mục tiêu của hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN là gì?
Căn cứ tại Điều 1 Hiến chương ASEAN 2007 có nêu rõ mục tiêu của hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN như sau:
- Duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định và tăng cường hơn nữa các giá trị hướng tới hòa bình trong khu vực;
- Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội;
- Duy trì Đông Nam Á là một Khu vực không có vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác;
- Đảm bảo rằng nhân dân và các Quốc gia thành viên ASEAN được sống hoà bình với toàn thế giới nói chung trong một môi trường công bằng, dân chủ và hoà hợp;
- Xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất với sự ổn định, thịnh vượng, khả năng cạnh tranh và liên kết kinh tế cao, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, bao gồm sự chu chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và dòng đầu tư; di chuyển thuận lợi của các doanh nhân, những người có chuyên môn cao, những người có tài năng và lực lượng lao động, và sự chu chuyển tự do hơn các dòng vốn;
- Giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN thông qua hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau;
- Tăng cường dân chủ, thúc đẩy quản trị tốt và pháp quyền, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, với sự tôn trọng thích đáng các quyền và trách nhiệm của các Quốc gia thành viên ASEAN;
- Đối phó hữu hiệu với tất cả các mối đe dọa, các loại tội phạm xuyên quốc gia và các thách thức xuyên biên giới, phù hợp với nguyên tắc an ninh toàn diện;
- Thúc đẩy phát triển bền vững nhằm bảo vệ môi trường khu vực, tính bền vững của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn di sản văn hóa và chất lượng cuộc sống cao của người dân khu vực;
- Phát triển nguồn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo lâu dài, trong khoa học và công nghệ, để tăng cường quyền năng cho người dân ASEAN và thúc đẩy Cộng đồng ASEAN;
- Nâng cao phúc lợi và đời sống của người dân ASEAN thông qua việc tạo điều kiện để họ tiếp cận bình đẳng các cơ hội về phát triển con người, phúc lợi và công bằng xã hội;
- Tăng cường hợp tác trong việc xây dựng cho người dân ASEAN một môi trường an toàn, an ninh và không có ma túy;
- Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân, trong đó khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây dựng cộng đồng ASEAN;
- Đề cao bản sắc ASEAN thông qua việc nâng cao hơn nữa nhận thức về sự đa dạng văn hoá và các di sản của khu vực; và
- Duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như là động lực chủ chốt trong quan hệ và hợp tác với các đối tác bên ngoài trong một cấu trúc khu vực mở, minh bạch và thu nạp.
Khu vực Đông Nam Á bao gồm mấy bộ phận?
Khu vực Đông Nam Á nằm ở phía Đông Nam châu Á, là nơi tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có vị trí cầu nối giữa lục địa Á – Âu với lục địa Ô-xtrây-li-a. Đông Nam Á bao gồm một hệ thống các bán đảo, đảo và quần đảo đan xen giữa các biển và vịnh biển rất phức tạp.
Đông Nam Á là khu vực có vị trí địa lý quan trọng, đây là nơi giao thoa giữa nhiều nền văn hóa lớn
Vậy thì Khu vực Đông Nam Á bao gồm mấy bộ phận?
Đông Nam Á gồm 02 bộ phận là đất liền và hải đảo:
Phần đất liền của Đông Nam Á mang tên là bán đảo Trung Ấn, Sở dĩ phần đất liền của Đông Nam Á mang tên bán đảo Trung Ấn vì nằm giữa hai nước Trung Quốc và Ấn Độ. Phần hải đảo có tên chung là quần đảo Mã Lai với trên một vạn đảo lớn nhỏ.
Phần đất liền của Đông Nam Á bao gồm các nước sau: Việt Nam, Lào,Campuchia, Thái Lan, Myanmar và phía tây Malaysia.
Khu vực Đông Nam Á bao gồm bao nhiêu bộ phận? Vị trí của Đông Nam Á? Đông Nam Á có bao nhiêu Quốc gia? (Hình từ Internet)
ASEAN và các Quốc gia thành viên sẽ hoạt động theo các nguyên tắc nào?
Tại Điều 2 Hiến chương ASEAN 2007 có nêu rõ nguyên tắc hoạt động của ASEAN và các Quốc gia thành viên như sau:
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các Quốc gia thành viên;
- Cùng cam kết và chia sẻ trách nhiệm tập thể trong việc thúc đẩy hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực;
- Không xâm lược, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay các hành động khác dưới bất kỳ hình thức nào trái với luật pháp quốc tế;
- Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình;
- Không can thiệp vào công việc nội bộ của các Quốc gia thành viên ASEAN;
- Tôn trọng quyền của các Quốc gia thành viên được quyết định vận mệnh của mình mà không có sự can thiệp, lật đổ và áp đặt từ bên ngoài;
- Tăng cường tham vấn về các vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích chung của ASEAN;
- Tuân thủ pháp quyền, quản trị tốt, các nguyên tắc của nền dân chủ và chính phủ hợp hiến;
- Tôn trọng các quyền tự do cơ bản, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, và công bằng xã hội;
- Đề cao Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế bao gồm cả luật nhân đạo quốc tế mà các Quốc gia thành viên đã tham gia
- Không tham gia vào bất kỳ một chính sách hay hoạt động nào, kể cả việc sử dụng lãnh thổ của một nước, do bất kỳ một Quốc gia thành viên ASEAN hay ngoài ASEAN hoặc đối tượng không phải là quốc gia tiến hành, đe dọa đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự ổn định chính trị và kinh tế của các Quốc gia thành viên ASEAN;
- Tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo của người dân ASEAN, đồng thời nhấn mạnh những giá trị chung trên tinh thần thống nhất trong đa dạng;
- Giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong các quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội với bên ngoài, đồng thời vẫn duy trì tính chủ động, hướng ra bên ngoài, thu nạp và không phân biệt đối xử; và
- Tuân thủ các nguyên tắc thương mại đa biên và các cơ chế dựa trên luật lệ của ASEAN nhằm triển khai có hiệu quả các cam kết kinh tế, và giảm dần, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các rào cản đối với liên kết kinh tế khu vực, trong một nền kinh tế do thị trường thúc đẩy
BNEWS Nhờ thiên nhiên ban tặng, Đông Nam Á sở hữu trữ lượng đáng kể đối với một số khoáng sản quan trọng, trong đó có niken, thiếc, các nguyên tố đất hiếm (REE) và bauxite.
Theo trang “The Strategist” (Australia), nhu cầu của thế giới đối với các loại khoáng sản quan trọng sẽ tăng đáng kể trong những thập kỷ tới, từ 7,1 triệu tấn trong năm 2020 lên 42,3 triệu tấn vào năm 2050. Các cam kết toàn cầu về khử carbon là yếu tố chính dẫn đến sự tăng trưởng này, bởi các công nghệ năng lượng sạch cần một vào số lượng lớn các khoáng sản quan trọng. Bên cạnh đó, tất cả các ngành công nghiệp phức tạp - bao gồm cả sản xuất quốc phòng - cũng có nhu cầu cao về những khoáng sản quan trọng sẽ cạnh tranh để sở hữu chúng.
Chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng, an toàn và đáng tin cậy đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình chuyển đổi năng lượng. Đây là yếu tố then chốt đảm bảo tăng quy mô lắp đặt tua-bin gió, pin tiên tiến, máy điện phân và lưới năng lượng sạch. Các loại khoáng sản như niken, lithium, coban, đồng và neodymium được sử dụng phổ biến nhất trong các sản phẩm năng lượng sạch, bao gồm quang điện Mặt Trời, tua-bin gió, bộ lưu trữ pin lưới, xe điện, mạng lưới điện và công nghệ hydro. Nhu cầu đối với những khoáng sản đó được cho là sẽ gia tăng đáng kể trong thời gian tới.
Nhờ thiên nhiên ban tặng, Đông Nam Á sở hữu trữ lượng đáng kể đối với một số khoáng sản quan trọng, trong đó có niken, thiếc, các
(REE) và bauxite. Tính theo dự trữ toàn cầu, Indonesia có 22% niken, 16% thiếc và 4% bauxite; Myanmar có khoảng 18% nguyên tố đất hiếm; Philippines có khoảng 5% niken. Indonesia và Philippines được cho là cũng đang nắm giữ một trữ lượng coban nhất định. Tuy nhiên, khu vực này vẫn chưa khám phá đầy đủ tiềm năng về các “mỏ vàng” khoáng sản tự có.
Bên cạnh đó, việc thiết lập quy trình xử lý nguyên liệu ở hạ nguồn tại Đông Nam Á vẫn còn là một thách thức lớn, đặc biệt nếu phải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường cao. Để trở thành trung tâm cung cấp khoáng sản quan trọng cho thế giới, khu vực này cần sự giúp đỡ từ các quốc gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản như Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc và các nước châu Âu.
Do những thách thức trong việc mở rộng chuỗi giá trị ở hạ nguồn và thiếu sự tham gia của các nước có kinh nghiệm bên ngoài, Đông Nam Á bắt đầu phát triển các phương pháp tiếp cận tập trung vào trong nước. Cách tiếp cận của Indonesia đối với niken là một ví dụ điển hình. Nước này bắt đầu khẳng định mình là một trung tâm khoáng sản quan trọng bằng cách cấm xuất khẩu quặng niken thô từ năm 2014 và chỉ cho phép ngoại lệ đối với các công ty khai thác đang đầu tư vào chế biến. Đến năm 2020,
mở rộng thành tuyệt đối (tức loại bỏ ngoại lệ đối với các công ty khai thác với mục đích chế biến). Với việc yêu cầu tinh chế ở trong nước, Indonesia đặt mục tiêu tạo ra một ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cho các nguồn tài nguyên khoáng sản quan trọng.
Trước đây, Indonesia khai thác khoảng 71 triệu tấn quặng niken mỗi năm và xuất khẩu 65 triệu tấn ở dạng thô. Hầu hết nguồn xuất khẩu niken đều đến Trung Quốc để nấu chảy và tạo ra thép không gỉ. Kể từ khi áp đặt lệnh cấm, Indonesia đã thu hút vốn đầu tư đáng kể của Trung Quốc vào việc xây dựng các nhà máy luyện kim địa phương, trong đó Tập đoàn thép Tsingshan thuộc sở hữu tư nhân đang dẫn đầu phong trào này. Sản lượng khai thác niken của Indonesia vì thế đã tăng gấp 9 lần. Các đối thủ cạnh tranh quốc tế, bao gồm cả các mỏ niken ở Australia, đang phải vật lộn để cạnh tranh với lợi nhuận vốn và chi phí vận hành thấp từ các hoạt động ở Indonesia.
Tuy nhiên, có những lo ngại hợp lý về tính bền vững của môi trường trong dài hạn, do hoạt động khai thác khoáng sản quan trọng ở thượng nguồn và hạ nguồn của Indonesia. Ngoài ra, Liên minh châu Âu (EU) đã khiếu nại về lệnh cấm xuất khẩu của Indonesia ra Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cho rằng lệnh cấm này không phù hợp với nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế thương mại định lượng.
Tuy nhiên, chính sách mà nước này ban hành phần nào đã được mục tiêu đề ra. Quốc gia này hiện có ngành công nghiệp niken phát triển ở hạ nguồn và có khả năng sẽ mở rộng lệnh cấm xuất khẩu đối với các loại khoáng sản quan trọng khác.
Đáng chú ý là có rất ít “người chơi” tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu về REE, mặc dù loại khoáng sản này có tầm quan trọng đối với các công nghệ phức tạp. Vì vậy, Mỹ và các đồng minh đang cố gắng tái lập vị thế trong lĩnh vực này. Chính phủ của Tổng thống Mỹ Joe Biden đang nỗ lực đổi mới trọng tâm, lên kế hoạch đầu tư lớn vào công nghệ chống biến đổi khí hậu. Những nước khác cũng đã có phản ứng với tình hình trên.
Các công cụ chính sách nhằm đa dạng hóa nguồn cung cấp khoáng sản quan trọng bao gồm Đạo luật nguyên liệu thô quan trọng của EU, Đạo luật giảm lạm phát của Mỹ, Chiến lược khoáng sản quan trọng của Australia và Chiến lược khoáng sản quan trọng của Canada…
Các nước Đông Nam Á có thể được hưởng lợi từ những nỗ lực của phương Tây nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Quốc. Trong bối cảnh này, Australia có thể đóng vai trò hỗ trợ. Australia nằm ở vị trí địa lý thuận lợi để hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp chế biến của khu vực bằng cách chuyển giao công nghệ, đáp ứng các cân nhắc về môi trường, xã hội và quản trị.
Australia có thể đưa ra các tiêu chuẩn cao về lao động và môi trường cũng như chuyên môn kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất. Điều này trái ngược với việc Indonesia chuyển sang sản xuất niken chất lượng cao thông qua chế biến cấp thấp. Các quy định môi trường yếu kém hơn của Indonesia có thể gây ra những hậu quả lâu dài về xã hội và môi trường.
Đông Nam Á đang phải đối mặt với thách thức lớn trong việc thiết lập các ngành công nghiệp hạ nguồn chất lượng cao cho các khoáng sản quan trọng, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, thách thức không phải là không thể vượt qua.
Sự chung tay của chính phủ và doanh nghiệp, hợp tác phát triển trong cùng khu vực và với các quốc gia nhiều tiềm năng khác có thể giảm thiểu rủi ro và từ đó cải thiện triển vọng của các dự án trong tương lai. Sự trợ giúp đó có thể bao gồm hỗ trợ kỹ thuật, nghiên cứu và phát triển, đầu tư chiến lược để tăng quy mô xử lý và khóa tài chính và bao tiêu sản xuất. Trong khi đó, quan hệ đối tác với các ngành công nghiệp nước ngoài có thể mang lại công nghệ.
Sẽ không dễ dàng, nhưng Đông Nam Á có tiềm năng trở thành một trong những nguồn cung cấp khoáng sản quan trọng chính của thế giới.