1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự
Bước 6: Xét xử ở phiên tòa sơ thẩm
Đưa vụ án ra xét xử ở phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 222 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Phiên tòa sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường hợp phải hoãn phiên tòa.
Bước 2: Tòa án nhận đơn và phân công thẩm phán xem xét đơn
Khoản 2 Điều 191 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:
Quy định tại Điều 191 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện nộp tiền tạm ứng án phí và thụ lý vụ án theo thủ tục.
Theo Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nguyên tắc tiến hành hòa giải là: Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong vòng 01 tháng để chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Tòa án yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ, ra các quyết định đình chỉ xét đơn, trưng cầu giám định, định giá tài sản, mở phiên tòa giải quyết việc dân sự… trước khi đưa vụ án ra xét xử.
Lưu ý: Nếu chưa có kết quả giám định, định giá tài sản thì có thể kéo dài thời gian chuẩn bị xét đơn yêu cầu nhưng không vượt quá 01 tháng.
Bước 1: Nộp đơn khởi kiện cho cơ quan pháp lý có thẩm quyền
Để bắt đầu quá trình tố tụng dân sự, bạn cần nộp đơn khởi kiện cho cơ quan pháp lý có thẩm quyền
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua dịch vụ bưu điện. Cụ thể:
– Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
– Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
– Cá nhân thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này là người không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm đơn khởi kiện, người không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện.
– Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Người tham gia tố tụng gồm những ai?
Người tham gia tố tụng dân sự là người thực hiện hay góp phần tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Các hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự chịu sự chi phối của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, tại Chương VI, người tham gia tố tụng, Điều 68, đương sự trong mỗi loại vụ việc được xác định khác nhau:
Đương sự trong vụ án dân sự, sẽ gồm:
Đương sự trong việc dân sự, sẽ gồm:
Những người tham gia tố tụng khác:
Bên cạnh các đương sự trong vụ việc dân sự, còn có những người tham gia tố tụng khác.
Thủ tục tố tụng dân sự được diễn ra như thế nào?
Thủ tục tố tụng dân sự cơ bản gồm những bước sau đây:
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự là gì?
Theo Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nguyên tắc hòa giải là một nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của tố tụng dân sự. Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa giảm bớt giai đoạn tố tụng kéo dài, vừa giải quyết vụ án triệt để mâu thuẫn giữa các đương sự cũng như tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và công dân.
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự là một phương pháp giải quyết tranh chấp mà các bên liên quan đồng ý thương lượng và giải quyết vấn đề trước khi đưa vụ việc ra xét xử trước Tòa án
Đây cũng là nguyên tắc xác định trách nhiệm của Tòa án được ghi nhận tại Điều 10 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.”
Theo đó, trách nhiệm của Tòa án là hòa giải vụ việc dân sự và tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự trên cơ sở tự nguyện. Tự nguyện tham gia hòa giải, tự nguyện thỏa thuận nội dung nếu nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội.
Tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người mọi công dân. Hiểu rõ trình tự thủ tục và chấp hành đúng pháp luật là trách nhiệm của mỗi người dân, góp phần hoàn thiện trật tự xã hội, xây dựng xã hội tốt đẹp.
Đừng quên theo dõi và cập nhật những thông tin hữu ích trên trang web của chúng tôi. Khi cần, hãy liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn chi tiết hơn: [email protected]
Nguyên tắc hoà giải trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
Nguyên tắc hòa giải được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải quyết vụ án dân sự, theo đó Tòa án tiến hành theo pháp luật TTDS nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận, thương lượng với nhau về giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động thông qua vai trò trung gian của Tòa án.
Nguyên tắc hòa giải của Tòa án được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa trong việc bảo đảm giải quyết các vụ việc nhanh chóng, hiệu quả nhất thông qua phương thức hòa giải tại Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tiến hành thủ tục hòa giải và tạo điều kiện cho các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết các vấn để của vụ việc dân sự theo đúng quy định của pháp luật, trừ những vụ việc không được hòa giải và những vụ việc không tiến hành hòa giải được. Như vậy, phạm vi áp dụng nguyên tắc hòa giải áp dụng cho cả quá trình giải quyết vụ án dân sự và quá trình giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, các điều luật quy định chung về giải quyết việc dân sự và các quy định của BLTTDS 2015 về thủ tục cụ thể đối với các việc dân sự khác lại không có các quy định về hòa giải. Vì thế, có thể hiểu về nguyên tắc chung việc dân sự là không áp dụng nguyên tắc hòa giải trừ trường hợp giải quyết thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn quy định tại Điều 397 BLTTDS 2015 xem như là một ngoại lệ áp dụng nguyên tắc hòa giải trong quá trình giải quyết việc dân sự tại Tòa án.
Nội dung hòa giải chính là các vấn đề của vụ việc mà các bên đương sự còn mâu thuẫn với nhau. Ngoài ra, trong hòa giải vấn đề án phí cũng sẽ được các bên bàn bạc thương lượng. Nội dung hòa giải vụ việc dân sự phụ thuộc vào tính chất của quan hệ pháp luật tranh chấp và mục đích của việc hòa giải đối với loại việc đó. Nội dung hòa giải của một vụ việc dân sự cụ thể được xác định theo căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan và sự phản đối của các đương sự với nhau. Như vậy, nội dung hòa giải vụ việc dân sự là những tranh chấp, bất đồng giữa các bên đương sự trước thời điểm Tòa án tiến hành hòa giải.
Trước khi tiến hành phiên hòa giải, Tòa án phải mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung phiên họp. Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Sau khi được thẩm phán hướng dẫn và nghe giải thích pháp luật có liên quan đến vụ án đang tranh chấp, đến lượt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra định hướng giải quyết. Sau khi các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các đương sự trình bày bổ sung về những nội dung đó để Thẩm phán kết luận. Đối với những ý kiến của đương sự đưa ra cách giải quyết bất hợp lý như khởi kiện tài sản không có căn cứ, yêu cầu bồi thường quá đáng thì thẩm phán chủ trì phải kịp thời phân tích, thẳng thắn chỉ cho họ biết yêu cầu của họ đưa ra là không hợp lý để họ cân nhắc lại.
Khi đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì toà án lập biên bản hòa giải thành, trong đó nêu rõ nội dung tranh chấp và những nội dung đã được đương sự thỏa thuận. Biên bản này chưa có giá trị pháp lý, nó chỉ là tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Biên bản hòa giải phải có các nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 186 BLTTDS. Ngoài ra, biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của thư ký toà án ghi biên bản và của thẩm phán chủ trì phiên hòa giải. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải.
Thực tiễn công tác xét xử cho thấy các Toà án đã luôn quan tâm, thực hiện tốt công tác hoà giải và đã đạt ỷ lệ hòa giải thành hàng năm đều đạt trên 50% tổng số các vụ việc đã giải quyết, giúp giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, dứt điểm, góp phần giải quyết tốt mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bảo đảm quyền lợi của Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, việc áp dụng nó vẫn còn tồn tại một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, quy định về những vụ án không tiến hành hoà giải được
BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm trường hợp: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì vụ án không tiến hành hòa giải được (khoản 1 Điều 207) nhưng không quy định rõ ràng trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải lần đầu thì trong thời hạn bao lâu sẽ được tổ chức phiên hoà giải tiếp theo? Số lần hoà giải tối đa là bao nhiêu? Quy định này cũng chưa thật sự hợp lý bởi lẽ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm những người có yêu cầu độc lập và không có yêu cầu độc lập. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập là người có thể đứng về phía nguyên đơn, bị đơn nên Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà họ vẫn cố tình vắng mặt thì thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được là hợp lý. Còn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn.
Thứ hai, về thành phần phiên hoà giải
Theo khoản 3 Điều 209 BLTTDS 2015 quy định: “Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp”. Điều luật chỉ quy định “có đương sự vắng mặt” mà không quy định tối đa số lần đương sự được vắng mặt có lý do chính đáng hoặc hậu quả pháp lý khi đương sự vắng mặt không có lý do chính đáng. Luật cũng không quy định trường hợp các đương sự đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai tới phiên hòa giải mà vẫn vắng mặt thì bị coi là hòa giải không thành. Từ đó dẫn đến không ít các trường hợp các đương sự lạm dụng sự vắng mặt để trì hoãn việc giải quyết vụ án.
Thứ ba, về thời điểm mở phiên họp hoà giải
BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay không có quy định nào về thời điểm mở phiên họp hòa giải mà chỉ quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”. Việc chọn thời điểm để tiến hành mở phiên họp hòa giải có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định. Hiện nay, có quan điểm cho rằng, thời điểm tiến hành hòa giải là khi Tòa án thu thập đầy đủ chứng cứ và cần thiết để ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu kết quả hòa giải không thành. Cũng có quan điểm cho rằng, việc hòa giải là do thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xem xét quyết định, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao công tác hoà giải tại toà án
Một là, quy định về những vụ án dân sự không tiến hành hoà giải được. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn. Bản chất của vụ án có yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan là Toà án đã nhập yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết cùng một vụ án. Do đó, Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 mà họ vẫn cố tình vắng mặt thì coi như đã từ bỏ yêu cầu độc lập và Toà án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia. Bên cạnh đó, cần quy định rõ ràng hơn về trường hợp đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng. Đối với trường hợp này cần quy định rõ hướng xử lý, bởi nếu trong trường hợp đương sự có yêu cầu như vậy, các đương sự rất có khả năng đi đến thống nhất trong việc giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy, nếu Toà hoà giải theo yêu cầu của đương sự trong trường hợp trên, việc giải quyết sẽ tiến hành nhanh chóng ít tốn kém, đơn giản và những chủ thể tiến hành tố tụng khác không phải mất thời gian và công sức để nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Hai là, về thành phần tham gia phiên hoà giải. Thành phần phiên họp hòa giải theo quy định tại Điều 209 bao gồm: thẩm phán, thư ký phiên tòa, các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 76 BLTTDS quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền “tham gia việc hòa giải”. Việc quy định như vậy đã dẫn tới nhiều ý kiến chưa thống nhất liên quan đến phiên hòa giải. Vì vậy, để đảm bảo tương thích với điểm đ khoản 2 điều 227 BLTTDS 2015 thì cần bổ sung, hướng dẫn rõ về trường hợp này nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sư vắng mặt, phiên hoà giải vẫn tiến hành bình thường.
Ba là, về thủ tục ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. BLTTDS 2015 cần quy định thời hạn và phương thức lấy ý kiến của đương sự vắng mặt trong trường hợp vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt. Theo đó thời hạn có thể tối đa là 15 ngày, kể từ ngày các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án. Đối với trường hợp đương sự vắng mặt ở nước ngoài thì thời hạn lấy ý kiến của đương sự vắng mặt được thực hiện theo thủ tục ủy thác tư pháp sẽ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt.
Hòa giải là một chế định đặc biệt quan trọng trong giải quyết vụ việc dân sự, góp phần giảm bớt số lượng vụ việc cho Toà án cũng như tiết kiệm thời gian, tiền bạc cho Nhà nước. Hoà giải chính là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, đã góp phần thể hiện rõ tinh thần đề cao quyền định đoạt của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp dân sự tại Toà án, đảm bảo mâu thuẫn giữa các bên được giải quyết một cách kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc hoàn thiện các quy định về hoà giải nói chung và hoà giải trong TTDS nói riêng là yêu cầu cấp thiết trước sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội đất nước.
Một số quy định cần hoàn thiện nhằm thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất