Thủ Tục Đầu Tư Vào Việt Nam

Thủ Tục Đầu Tư Vào Việt Nam

Bên trong nhà máy Intel Products Vietnam - Ảnh: QUANG MINH

Thủ tục xin visa đầu tư cho người nước ngoài tại Việt Nam

Thủ tục xin visa đầu tư là quy trình quan trọng giúp cho nhà đầu tư nước ngoài có thể nhập cảnh, nghiên cứu thị trường và đầu tư trực tiếp tại các doanh nghiệp lớn nhỏ ở Việt Nam.

Điều kiện cấp visa đầu tư tại Việt Nam cho người nước ngoài

Các nhà đầu tư nước ngoài muốn xin được visa đầu tư tại Việt nam thì cần đáp ứng được những điều kiện dưới đây theo Điều 10 Luật số 47/2014/QH13:

Chuẩn bị đầy đủ những giấy tờ theo Luật quy định và nộp sớm, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được nhận kết quả trong khoảng thời gian sớm nhất, tránh bị tốn nhiều thời gian để bổ sung những giấy tờ cũ nhiều lần.

Visa đầu tư tại Việt Nam cho người nước ngoài là gì?

Visa đầu tư tại Việt Nam cho người nước ngoài là một loại visa do Chính phủ Việt Nam cấp để cho phép người nước ngoài thành lập hoặc đầu tư góp vốn vào công ty hoạt động tại Việt Nam.

Xem thêm: Báo cáo thu hút đầu tư FDI tại Việt Nam 2023: tiếp đà tăng trưởng, hấp dẫn nhà đầu tư trên toàn thế giới

Nhà máy lớn nhất ở Việt Nam, sẽ tiếp tục đầu tư

* Intel đã đầu tư trên 1,5 tỉ USD, liệu có kế hoạch nào khác không, thưa ông?

- Tôi rất tự hào chia sẻ nhà máy Intel Products Vietnam hiện giờ là nhà máy lớn nhất trong bốn nhà máy về mảng lắp ráp và kiểm định.

Năm 2022 đã đánh dấu và khẳng định tầm quan trọng của Việt Nam với Intel và cả tầm quan trọng của Intel với Việt Nam. Kết quả hiệu suất và hiệu quả như vậy đã củng cố thêm nhu cầu tiếp tục đầu tư thêm tại Việt Nam của chúng tôi.

Đến cuối 2021, chúng tôi đã đầu tư 1,5 tỉ USD. Chúng tôi muốn tiếp tục đầu tư và đây chắc chắn là điều Intel sẽ thực hiện.

* Liệu có khả năng nhà máy Intel ở Việt Nam sẽ được nâng cấp chức năng để tham gia nhiều công đoạn hơn nữa trong quá trình sản xuất chip không?

- Hiện tại, nhà máy Việt Nam đang sản xuất vi xử lý thế hệ 13 Raptor Lake và vi xử lý thế hệ tiếp theo Meteor Lake và chiếm hơn 50% sản lượng toàn cầu về lắp ráp, kiểm định. Đây là một con số vô cùng đáng kể.

Do đó, kế hoạch hiện tại của chúng tôi chủ yếu vẫn tiếp tục tập trung vào đóng gói và kiểm định. Tôi nghĩ là chúng ta không nên đánh giá thấp vai trò của việc đóng gói và kiểm định. Khi so sánh với thế hệ trước, quá trình sản xuất vi xử lý Meteor Lake phức tạp hơn rất nhiều.

Với mô hình và phiên bản mới của chip Meteor Lake phức tạp như thế, do vậy đòi hỏi quy trình lắp ráp và kiểm định cũng phức tạp hơn. Kéo theo công nghệ liên quan đến đóng gói và kiểm định cũng sẽ cần được liên tục nâng cấp và làm mới.

Như việc đóng gói, chúng tôi thực hiện với đơn vị tính bằng micron nên đòi hỏi độ chính xác rất cao. Các kỹ sư của chúng tôi cũng cần phải có đủ khả năng để giải quyết những vấn đề mới phát sinh ngay lập tức.

Đây là những thách thức thật sự khi nhìn vào phân tích dữ liệu và trí tuệ AI, công nghiệp 4.0 hay sản xuất 4.0 đều đòi hỏi phải liên tục nâng cấp và đầu tư để đảm bảo kết quả và chất lượng ngày một cao hơn.

Khi mới đến thị trường Việt Nam, chúng tôi được hỗ trợ giải pháp "một điểm dừng"... Tuy vậy, thời gian qua đi, mọi thứ cũng dần thay đổi với nhiều thử thách hơn.

Hồ sơ xin cấp visa đầu tư tại Việt Nam

Hồ sơ này bao gồm các giấy tờ theo quy định theo Luật quy định. Cụ thể, hồ sơ bao gồm:

– Bản sao chứng thực của giấy chứng nhận đăng ký hoặc đã thành lập doanh nghiệp;

– Văn bản giới thiệu con dấu và chữ ký của người có thẩm quyền của doanh nghiệp (Mẫu NA16 ban hành kèm theo Thông tư 04/2015/TT-BCA).

– Công văn yêu cầu Cục Quản lý xuất nhập cảnh xem xét và phê duyệt việc cấp thị thực và phép nhập cảnh cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam theo mẫu NA2 được ban hành kèm theo Thông tư số 04/2015/TT-BCA.

Những loại visa đầu tư nào đủ điều kiện cấp thẻ tạm trú?

Theo chính sách visa đầu tư Việt Nam: Visa ĐT1, ĐT2, ĐT3 đủ điều kiện xin cấp thẻ tạm trú theo thời hạn quy định tại Điều 38 Luật số 47/2014/QH13. Nhà đầu tư có thẻ tạm trú sẽ có nhiều lợi ích như thuận tiện trong quá trình xuất nhập cảnh, bảo lãnh người thân dễ dàng, được bảo hộ tài sản, có thể đứng tên tài sản, căn hộ tại Việt Nam, thuận tiện khi làm các giấy tờ khác…

Lệ phí xin cấp visa tại Việt Nam bao nhiêu?

Dưới đây là chi phí xin visa có hiệu lực từ ngày 03/10/2023 mới nhất hiện nay:

Thông tin tổng hợp từ: Luật số 47/2014/QH13, Luật số 51/2019/QH14 về Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Thông tư 02/VBHN-BCA, Thông tư 62/2023/TT-BTC, Trang thông tin Công an thành phố Hà Nội.

Xem thêm: Thủ tục thành lập công ty vốn nước ngoài tại Việt Nam (update 2023)

Xem thêm: Lương cơ bản ở Việt Nam và mức đãi ngộ thực tế – những vấn đề nhà đầu tư cần biết (cập nhật 2023)

Ưu tiên phát triển năng lượng xanh

Mới đây, Hiệp hội các doanh nghiệp Đức tại Việt Nam (GBA) đã công bố những bước tiến đạt được trong quý II/2024, nhấn mạnh sự mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp Đức và vai trò then chốt của năng lượng xanh trong phát triển kinh tế Việt Nam.

Ông Alexander Ziehe, Chủ tịch GBA chia sẻ, trước đây, đầu tư trực tiếp (FDI) từ Đức chủ yếu tập trung vào Singapore, Thái Lan và Malaysia. Các quốc gia này đều có các nhóm ngành công nghiệp Đức đã được thiết lập lâu đời, như ngành ô tô ở Thái Lan, trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) ở Singapore. Tuy nhiên, những năm gần đây, xu hướng này đang dần thay đổi khi Việt Nam được coi là một điểm đến đầu tư ngày càng hấp dẫn.

Theo đó, các nhà đầu tư Đức đang ưu tiên mở rộng hoạt động của họ tại Việt Nam thay vì Trung Quốc, do thị trường Việt Nam có chi phí đầu vào thấp hơn, vị trí địa lý thuận lợi cũng như chuỗi cung ứng gần Trung Quốc. Việt Nam còn hấp dẫn các nhà đầu tư Đức bởi thị trường người tiêu dùng trung lưu ngày càng lớn mạnh. Điều này cũng chứng minh, doanh nghiệp Đức ngày càng gia tăng sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam - trung tâm chiến lược mới nổi của chuỗi cung ứng toàn cầu trong sản xuất công nghiệp và đổi mới sáng tạo.

Cụ thể, trong tháng 6 vừa qua, hai doanh nghiệp Đức là Ziehl-Abegg và Kärcher đã gây chú ý khi triển khai các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Ziehl-Abegg, công ty thuộc “top” đầu thế giới về công nghệ thông gió, công nghệ điều khiển và động cơ, đã khánh thành nhà máy sản xuất tại Đồng Nai.

Nhà máy này có tổng giá trị đầu tư 20 triệu USD, được kỳ vọng sẽ đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu của công ty, cũng như tận dụng được lực lượng lao động tay nghề cao và điều kiện sản xuất thuận lợi tại Việt Nam. Cơ sở này tập trung sản xuất các sản phẩm về hệ thống thông gió và động cơ điện thế hệ mới, cung cấp cho cả thị trường trong nước và quốc tế.

Ngay sau Ziehl-Abegg, thương hiệu nổi tiếng toàn cầu về thiết bị và công nghệ làm sạch - Kärcher, cũng đã mở nhà máy mới tại Quảng Nam. Tổng vốn đầu tư của dự án là trên 500 tỉ đồng (tương đương 20 triệu Euro), với 13.500 m² nhà xưởng và 1.600 m² nhà văn phòng.

Sự mở rộng đầu tư này là một phần trong chiến lược tổng thể của Kärcher nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm thiết bị, phụ kiện làm sạch tại thị trường châu Á. Động thái này của Kärcher cho thấy, doanh nghiệp mong muốn tận dụng được vị trí chiến lược, cơ sở hạ tầng công nghiệp ngày càng được cải thiện, cũng như thị trường tiêu dùng đang phát triển mạnh của Việt Nam.

Theo GBA, xu hướng dịch chuyển hành động bền vững đang diễn ra trên toàn cầu, năng lượng xanh ngày càng được coi trọng. Vì thế, các giải pháp phát triển năng lượng xanh tại Việt Nam chính là trọng tâm hoạt động của Hiệp hội trong năm 2024. Đây cũng là cam kết gần đây của những thành viên GBA về “Xanh hóa vốn đầu tư FDI vào TP Hồ Chí Minh”, nhằm một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của đầu tư bền vững trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.

Sáng kiến này nhằm thu hút vốn FDI thân thiện với môi trường vào TP Hồ Chí Minh và thúc đẩy việc áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng. Thông qua việc khuyến khích các doanh nghiệp Đức đầu tư vào các giải pháp năng lượng xanh, GBA mong muốn giảm “dấu chân carbon” của Việt Nam, cũng như góp phần vào các nỗ lực toàn cầu về chống biến đổi khí hậu.

Song song đó, các thành viên của GBA cũng tích cực tham gia vào hoạt động tối ưu hóa sản xuất năng lượng xanh, nâng cao hiệu quả của khu vực FDI, phát triển các dự án năng lượng tái tạo, đảm bảo an ninh năng lượng và bền vững lâu dài. Những dự án tiềm năng này giúp thay đổi cảnh quan năng lượng của Việt Nam mà GBA đang hướng tới bao gồm: Năng lượng mặt trời, phong điện và sinh khối.

GBA tin tưởng rằng, các dự án đầu tư bền vững chính là chìa khóa tăng trưởng kinh tế dài hạn và bảo vệ môi trường. Do đó, thông qua hợp tác chặt chẽ với các đối tác địa phương và quốc tế, GBA mong muốn tạo ra một tương lai xanh và thịnh vượng hơn cho Việt Nam.

Còn nhiều thách thức về môi trường đầu tư

Việc doanh nghiệp Đức tăng cường hoạt động tại Việt Nam trong thời gian gần đây rõ ràng là một tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, môi trường đầu tư của Việt Nam còn tồn tại một số trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Những thách thức chủ yếu mà doanh nghiệp Đức đang phải đối mặt bao gồm: Thủ tục hành chính sau đầu tư, sự đồng bộ về cơ sở hạ tầng và tính minh bạch về khung chính sách ưu đãi.

Trong đó, thủ tục hành chính vẫn luôn là thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp nước ngoài khi thực hiện đầu tư vào Việt Nam. Các quy định pháp lý vẫn đang trong tiến trình hoàn thiện, vì vậy các doanh nghiệp phải cập nhật thường xuyên để đảm bảo tuân thủ luật pháp.

Tuy nhiên, để có thể điều chỉnh hoạt động theo các thay đổi này, doanh nghiệp Đức cần phải hiểu biết sâu sắc về luật pháp nói chung và quy định đặc thù của từng địa phương nói riêng. Đây cũng là một trong những khó khăn chung mà nhà đầu tư nước ngoài cần đối mặt.

Ông Alexander Ziehe, Chủ tịch GBA, cho biết: “Việt Nam đưa tới cho doanh nghiệp Đức nhiều cơ hội hấp dẫn, thế nhưng để có thể thích ứng tốt với khung quy định pháp lý thì không phải là việc dễ dàng. Vì vậy, chúng tôi cần đồng hành cùng các cơ quan tại địa phương để có thể tiếp tục đơn giản hóa các quy trình thủ tục, tạo ra một môi trường minh bạch hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài”.

Ngoài ra, quy hoạch hạ tầng còn thiếu đồng bộ cũng là một trong những thách thức cho các doanh nghiệp Đức. Mặc dù cơ sở hạ tầng tại Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều nhưng vẫn còn nhiều điểm cần được quan tâm nhiều hơn nữa, trong đó có mạng lưới giao thông và logistics. Đây cũng chính là điểm khiến nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là những doanh nghiệp còn chưa quen thuộc với thị trường Việt Nam đôi khi cũng phải cân nhắc.

“Tiềm năng của Việt Nam là rất lớn, nhưng điều quan trọng là chúng ta cần phải điều hướng hoạt động đầu tư kinh doanh vượt qua những thách thức sao cho hiệu quả. GBA luôn cam kết hỗ trợ các doanh nghiệp Đức trong từng bước đi tại Việt Nam để đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể phát triển mạnh mẽ trong thị trường đầy hứa hẹn này”, ông Alexander Ziehe chia sẻ thêm.

Thêm vào đó, lực lượng lao động trẻ và năng động của Việt Nam được coi như tài sản sẵn có, ưu ái dành cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào khu vực. Cũng theo chủ tịch GBA, Việt Nam có thể tự hào về một nguồn lao động dồi dào, được đào tạo tốt, với kỹ năng và trình độ cao. Đây cũng chính là điểm mang lại lợi thế cạnh tranh để thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp, thuộc các nhóm ngành sử dụng nhiều nhân lực.

Do vậy, dù có nhiều chông gai và thách thức, nhưng với những lợi thế trên, thông qua tiến trình thúc đẩy thương mại và đầu tư song phương, GBA đã tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp Đức nói riêng, cũng như đóng góp cho sự phát triển kinh tế nói chung của cả hai nước.

Hiện tại, GBA có gần 400 thành viên và đối tác doanh nghiệp, con số phản ánh cơ hội phát triển và tiềm năng của thị trường Việt Nam. GBA cũng là một trong những hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, có uy tín tại các địa phương hoạt động. Ngoài ra, GBA còn là một trong những thành viên sáng lập của EuroCham Việt Nam, một tổ chức hợp tác đại diện cho các hoạt động và lợi ích xuyên châu Âu tại Việt Nam.

Thưa ông, trong nhiều báo cáo công bố gần đây của các tổ chức quốc tế, Việt Nam tiếp tục được đánh giá xem là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài. Vậy các doanh nghiệp đến từ Đài Loan nhìn nhận thế nào về đánh giá này?

Việt Nam có nền kinh tế ổn định, lực lượng lao động đông đảo và cơ cấu dân số vàng, tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Từ 20 năm trước, Việt Nam đã thu hút nhiều doanh nhân Đài Loan trong các ngành truyền thống như dệt may, đóng giày, nội thất… đến đầu tư.

Tính đến năm 2022, vốn đầu tư của doanh nhân Đài Loan chiếm khoảng 8% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, với tổng vốn đầu tư lũy kế là 36,4 tỷ USD, trở thành đối tác đầu tư lớn thứ 4 tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu cộng thêm khoản đầu tư từ các nước thứ ba thì số vốn đầu tư thực tế của doanh nghiệp Đài Loan sẽ vượt quá 50 tỷ USD.

Sau chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn của Đài Loan đã điều chỉnh sự phân bố trên thế giới. Nhờ những lợi thế sẵn có cộng thêm việc ký kết một số hiệp định thương mại tự do, Việt Nam trở thành điểm đến lý tưởng chuyển giao năng lực sản xuất từ Trung Quốc của ngành điện tử và chuỗi cung ứng của ngành này. Các nhà máy gia công hàng điện tử tiêu dùng lớn như Foxxcon, Compal, Pegatron, Wistron, Qisda… đều đã đến Việt Nam để thành lập nhà máy hoặc mở rộng năng lực sản xuất. Trong tương lai, chúng ta có thể mong đợi thêm nhiều doanh nhân và doanh nghiệp Đài Loan lên kế hoạch thành lập nhà máy tại Việt Nam.

Ông đánh giá như thế nào về dòng vốn đầu tư từ Đài Loan chảy vào Việt Nam đến thời điểm này, đặc biệt là dòng vốn đổ vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, công nghệ cao?

Trước khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung xảy ra, đầu tư của Đài Loan vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất truyền thống, chiếm gần 85% tổng vốn đầu tư của Đài Loan vào Việt Nam. Cho đến gần đây, các nhà máy sản xuất điện tử Đài Loan và thương hiệu quốc tế GIANT mới đến Việt Nam.

Ngoài ngành sản xuất, tỷ lệ doanh nhân Đài Loan đầu tư vào ngành dịch vụ của Việt Nam cũng tăng trong những năm gần đây, từ 10,1% trước đây lên 29,8% trong giai đoạn năm 2018-2022. Con số này cho thấy các loại hình doanh nghiệp Đài Loan đầu tư tại Việt Nam ngày càng đa dạng hơn.

Cho dù là ngành sản xuất truyền thống hay nhà máy chế biến chế tạo lớn và ngành điện tử, các công ty Đài Loan một mặt tận dụng ưu thế tài nguyên thiên nhiên và nhân công của Việt Nam, mặt khác du nhập công nghệ tiên tiến và đưa sản xuất công nghiệp hiện đại  vào Việt Nam để đạt được lợi ích chung cho cả hai bên.

Trong bối cảnh vốn đầu tư toàn cầu đang suy giảm, ông dự báo như thế nào về dòng vốn đầu tư từ Đài Loan vào Việt Nam trong thời gian tới?

Kể từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc năm 2018, nhiều công ty nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng hóa chuỗi cung ứng quốc tế của khách hàng Hoa Kỳ và châu Âu đã chuyển đơn hàng sản xuất sang Việt Nam, giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng hơn 7% trong hai năm liên tiếp 2018 và 2019. Ngay cả khi chịu tác động của dịch Covid-19, nhìn chung nền kinh tế Việt Nam vẫn thuộc top tăng trưởng nhanh nhất châu Á, đồng thời là điểm đến đầu tư lý tưởng của các nhà sản xuất Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan.

Đầu tư của doanh nhân Đài Loan vào Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng. Lấy miền Bắc Việt Nam làm ví dụ, giai đoạn này đã có các nhà sản xuất lớn như Foxxcon, Wistron, Qisda đến Việt Nam đầu tư. Tuy nhiên, các nhà máy điện tử này hiện vẫn phụ thuộc vào chuỗi cung ứng nước ngoài, bởi vậy, trong tương lai chúng ta có thể chờ đợi những nhà cung cấp liên quan đến ngành điện tử sẽ đầu tư vào Việt Nam.

Theo ông, để tiếp tục hút vốn từ nhà đầu tư nước ngoài nói chung và nhà đầu tư Đài Loan nói riêng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao, Việt Nam cần phải có những thay đổi như thế nào về môi trường đầu tư, nguồn nhân lực, chính sách thu hút... để thích ứng với sự đòi hỏi cao từ nhà đầu tư?

Việt Nam có nền chính trị và an ninh ổn định, Chính phủ Việt Nam luôn nỗ lực cam kết cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng vẫn còn những điểm cần cải thiện, như giải quyết vấn đề thiếu nhân lực kỹ thuật, giảm bớt các thủ tục hành chính và quy trình thực hiện.

Trong những năm gần đây, hầu hết đầu tư Đài Loan đến Việt Nam đều thuộc ngành công nghiệp điện tử, năng lượng mặt trời và các ngành công nghiệp mới nổi khác, nhu cầu về nhân lực kỹ thuật ngày càng cấp thiết. Tuy nhiên, các trường, khoa đào tạo liên quan tại Việt Nam rất ít, các doanh nghiệp chỉ có thể tự đào tạo tại công ty, đồng thời còn phải đề phòng công ty khác lôi kéo nhân viên của mình.

Chính phủ Việt Nam có thể bổ sung các trường, khoa đào tạo, chương trình đào tạo liên quan đến các ngành mới nổi vào hệ thống giáo dục đại học, hoặc kết hợp với các tổ chức giáo dục ở nước ngoài đào tạo thêm nhân lực trong các ngành mới nổi.

Cùng với đó, khi Chính phủ Việt Nam công bố các luật mới, đôi khi do các hướng dẫn thực hiện được công bố muộn, dẫn đến sự không thống nhất giữa chính quyền trung ương và địa phương. Nếu Chính phủ Việt Nam có thể chỉ định đầu mối tư vấn thống nhất rõ ràng, quy định thống nhất biện pháp thực hiện của các cán bộ địa phương, các nhà sản xuất nước ngoài sẽ có thể hoạt động thuận lợi hơn, giảm thiểu những hiểu nhầm không đáng có.

Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 12-2023 phát hành ngày 20-03-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam